MÔ ĐUN 1: NGÔN NGỮ KÍ HIỆU VÀ VĂN HÓA NGƯỜI ĐIẾC (1)

MÔ ĐUN 1: NGÔN NGỮ KÍ HIỆU VÀ VĂN HÓA NGƯỜI ĐIẾC (1)

Mô đun 1 trang bị cho học viên những đặc điểm cơ bản của người Điếc. Mô đun này gồm 2 chủ để: 1) Văn hóa người Điếc; và 2) Ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam. Thời lượng dành cho mô đun này là 60 tiết.

CHỦ ĐỀ 1. VĂN HÓA NGƯỜI ĐIẾC

I. Tổng quan

Để có thể làm tốt công tác phiên dịch ngôn ngữ kí hiệu, người học phải hiểu được văn hóa và ngôn ngữ của mình sẽ dịch. Học phần này học viên sẽ tìm hiểu về: người Điếc – một cộng đồng thiểu số về ngôn ngữ; cấu trúc xã hội của cộng đồng người Điếc; những giá trị, niềm tin,… Đồng thời được tiếp cận với Nhóm cộng đồng người Điếc, thực hành các kỹ năng: Chào hỏi; luân phiên trong giao tiếp; giải quyết mâu thuẫn,… phù hợp với văn hóa người Điếc.

Mục tiêu của nội dung 1

Mục tiêu kiến thức

  • Trình bày được một số đặc điểm cơ bản cộng đồng người Điếc;
  • Hiểu đặc điểm phong cách của của cộng đồng người Điếc Việt Nam

Kĩ năng

  • Phát hiện và sử dụng một số đặc điểm về phong cách của người Điếc

Thái độ

  • Tôn trọng ngôn ngữ và văn hóa của cộng đồng người Điếc
  • Có thói quen không ngừng trau dồi năng lực NNKH
  • Có thái độ hợp tác và học hỏi trong lĩnh vực phiên dịch giáo dục người Điếc.
  • Ý thức rõ và thể hiện hành vi đạo đức của nghề phiên dịch NNKH.

II. Giới thiệu chủ đề 1.

TT Nội dung Thời gian
Tổng số Lí thuyết Thực hành
1 Văn hóa người Điếc trên Thế giới 5 5 0
2 Văn hóa người Điếc Việt Nam 10 5 5

 

III. Điều kiện cần thiết để thực hiện chủ đề

          – Điều kiện tiên quyết khi học tiểu mô đun: không cần

IV. Nội dung:

Nội dung 1: Tìm hiểu văn hóa người Điếc

Nhiệm vụ của học viên – nghiên cứu các thông tin dưới đây và trả lời câu hỏi:

  1. Đặc điểm văn hóa cộng đồng có tác động như thế nào đến văn hóa “Điếc”?
  2. Nêu các đặc điểm văn hóa “Điếc”

Thông tin nguồn cho nội dung 1:

Ở goc độ cá nhân, Văn hóa là cuộc sống của mỗi con người – cách mỗi người sống, suy nghĩ, ăn uống, sử dụng ngôn ngữ, giao lưu kết bạn, là cái để xác định giá trị của mỗi con người, đức tin mà họ theo đuổi, cách xử sự và danh tính của mỗi người – tất cả những điều trên tạo nên bản sắc văn hóa. Chúng ta là sản phẩm của nền văn hóa của mình và nền văn hóa đó định nghĩa chúng ta là ai”[1]. Những người Điếc không phải học điều này – họ sống trong nền văn hóa này mỗi ngày. Nhưng những người muốn “ghé thăm” đều phải học, và những ai có ý định làm phiên dịch viên cho người Điếc thì càng phải tìm hiểu kĩ hơn ai hết.

Ở góc độ nhóm hay cộng đồng, Văn hóa được thể hiện quan những đặc điểm về niềm tin xã hội, hành vi, nghệ thuật, truyền thống văn học, lịch sử, các giá trị, các tổ chức và chia sẻ của cộng đồng. Đặc điểm văn hóa người điếc được xác định và chịu ảnh hưởng chủ yếu của văn hóa của cộng đồng nơi họ sinh sống. Nghiên cứu của Anna Mindess cho thấy “87 phần trăm những người khiếm thính da đen được hỏi xác định văn hóa người da đen là văn hóa đầu tiên của họ”[2]. Khác với dân tộc thiểu số có nền văn hóa riêng, người Điếc sống ở đâu thì mang nền văn hóa của cộng đồng nơi họ sinh sống. Các thành viên của cộng đồng người Điếc có xu hướng xem điếc là một sự khác biệt của con người chứ không phải là một người khuyết tật.

Văn hóa người Điếc (văn hóa Điếc) được thể hiện qua những đặc điểm về niềm tin xã hội, hành vi, nghệ thuật, truyền thống văn học, lịch sử, các giá trị, các tổ chức và chia sẻ của cộng đồng người điếc sử dụng NNKH như một phương tiện truyền thông chủ yếu. Trong văn bản, Điếc được viết là ‘Đ’ – đ hoa để chỉ Điếc với bản sắc văn hóa riêng biệt. Còn viết đ – ‘đ’ thường, để chỉ điếc với tình trạng suy giảm hoặc mất thính lực.

Cộng đồng người Điếc, hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm cả các thành viên gia đình của những người Điếc và phiên dịch viên NNKH, những người đồng cảm với văn hóa người Điếc và không bao gồm tất cả những người bị điếc hoặc khiếm thính (nghễnh ngãng) mà không có bản sắc văn hóa Điếc. Tác giả Becker[3] cho rằng “đó không phải là mức độ mất thính lực của những thành viên trong cộng đồng người điếc, mà chỉ ý nghĩa riêng về bản sắc và hành động về hệ quả của của cá nhân”. Cũng như đối với mỗi cá nhân thuộc về một nhóm xã hội nào đó, một người trở thành một thành viên của cộng đồng người Điếc nếu thỏa mãn hai điều kiện: 1) người đó tự nguyện là thành viên và; 2) được các thành viên khác của cộng đồng chấp nhận.

Văn hóa người Điếc được Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền của Người khuyết tật (2006) công nhận theo Điều 30, khoản 4: “Trên cơ sở bình đẳng với người khác, người khuyết tật có quyền được hoàn toàn công nhận và hỗ trợ về đặc trưng văn hoá và ngôn ngữ của họ, bao gồm cả ngôn ngữ kí hiệu và văn hoá của người Điếc”.

Đa số người Điếc chiếm lĩnh văn hóa Điếc trong quá trình học tập cùng các bạn điếc tại các trường, lớp chuyên biệt và trong các câu lạc bộ của người Điếc[4]. Việc chiếm lĩnh Văn hóa đặc thù phụ thuộc vào mức độ, thời điểm mất thính lực và hoàn cảnh sống của người Điếc. Một tỷ lệ rất nhỏ, chỉ 5% các cá nhân Điếc có được văn hóa Điếc và ngôn ngữ kí hiệu ngay từ khi được sinh ra trong gia đình có cha mẹ điếc[5]. Cộng đồng Điếc có đặc điểm khác với cộng đồng văn hóa dân tộc thiểu số là hầu hết các thành viên Điếc không có bản sắc văn hóa từ cha mẹ[6].

Sự đa dạng trong văn hóa người Điếc. Nhà giáo dục và phiên dịch viên ngôn ngữ kí hiệu Mĩ (ASL) tác giả Anna Mindess cho rằng: “Văn hóa người Điếc là không đồng nhất”[7] và thường thể hiện trong nhóm nhỏ. Điều này, một mặt là do các nhóm người Điếc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu khác nhau và thể hiện chuẩn mực văn hóa khác nhau. Mặt khác, văn hóa Điếc phụ thuộc và chịu ảnh hưởng về quốc tịch, nền giáo dục, chủng tộc, sắc tộc, giới tính, tầng lớp, khuynh hướng tình dục và các dấu hiệu nhận dạng khác.

Đặc điểm của văn hóa người Điếc:

Ngôn ngữ kí hiệu. Ngôn ngữ kí hiệu là một phần của văn hóa người Điếc. Bản sắc văn hóa Điếc cũng được xây dựng trên cơ sở niềm tin, giá trị và nghệ thuật cụ thể. Theo thống kê cơ sở dữ liệu Ethnologue, hiện tại trên Thế giới có 114 ngôn ngữ kí hiệu riêng biệt 157 ngôn ngữ kí hiệu địa phương chưa được thống kê[8]. Một loại ngôn ngữ nói có thể có nhiều loại ngôn ngữ kí hiệu. Ví như, trong khi Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đều nói chủ yếu bằng tiếng Anh, song ngôn ngữ ký hiệu chủ yếu sử dụng tại các quốc gia này lại khác biệt rõ rệt. Người Điếc tại Hoa Kỳ sử dụng ngôn ngữ kí hiệu Mỹ (ASL) vốn liên quan chặt chẽ đến ngôn ngữ kí hiệu Pháp. Còn người Anh sử dụng ngôn ngữ kí hiệu của riêng minh.

Các giá trị và niềm tin

Ngôn ngữ kí hiệu là cốt lõi của văn hóa người Điếc. Người Điếc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu tự nhiên với cấu trúc ngữ pháp riêng của họ, chẳng hạn như ngôn ngữ kí hiệu Mỹ khác với ngôn ngữ kí hiệu Anh, mặc dù cùng sử dụng chữ viết của tiếng Anh. Ngôn ngữ tiếng Anh được thể hiện bằng 3 hệ thống ngôn ngữ khác nhau: tiếng nói, chữ viết và ngôn ngữ kí hiệu[9].

Cộng đồng người Điếc có xu hướng chống lại sự đổi mới công nghệ như cấy ghép ốc tai điện tử và dạy trẻ điếc theo tiếp cận nghe – nói. Vì điều này có nguy cơ đe dọa cho sự tồn tại và phát triển của văn hóa người Điếc.

Cộng đồng người điếc phản đối mạnh mẽ phân biệt đối xử đối với những người Điếc. Văn hóa người Điếc ở Mỹ có xu hướng tập thể chứ không phải mang tính cá nhân; người điếc coi trọng văn hóa nhóm[10].

Hành vi ứng xử

Văn hóa người Điếc có những quy định nghi thức và sự quan tâm riêng. Ngoài những thông tin trong giao tiếp thông thường, người Điếc đề cao bối cảnh và dấu ấn giao tiếp. Người Điếc chia sẻ cho nhau những gì đã xảy ra quá trình và môi trường giao tiếp. Nhận định về thái độ của người giao tiếp cũng là những thông tin quan trọng, giấu những thông tin như vậy có thể được coi là thô lỗ. Khi đưa ra lời giới thiệu, những người Điếc thường cố gắng để tìm thấy điểm chung. Mặc dù cộng đồng người Điếc thường là tương đối nhỏ, nhưng người Điếc thường cùng biết một số người Điếc ở cộng đồng người Điếc khác.

Người điếc xem xét ý thức về thời gian cũng khác với người nghe. Họ thường đến sớm khi tham gia sự kiện quy mô lớn như tham dự bài giảng. Điều này có thể do nhu cầu để có được một chỗ ngồi và được nhìn rõ nét nhất cho những người Điếc.

Sự phụ thuộc vào công nghệ

Cá nhân người Điếc phu thuộc nhiều vào công nghệ. Tại Hoa Kỳ, các dịch vụ chuyển tiếp video và một loạt phần mềm điều khiển điện thoại video thường được người Điếc sử dụng để tiến hành giao tiếp qua điện thoại với người không điếc và nhà doanh nghiệp điếc, gia đình và bạn bè của mình. Các thiết bị như điện báo (được biết đến như một TTY, một thiết bị điện tử sử dụng cho truyền thông qua đường dây điện thoại) được một số người điếc ưa sử dụng khi họ không được tiếp cận với Internet tốc độ cao hoặc có thói quen như một sở thích liên lạc.

Công nghệ thậm chí còn quan trọng trong các tình huống xã hội mặt đối mặt. Ví dụ, khi người ta gặp một người không điếc và không biết ngôn ngữ kí hiệu, ngwoif Điếc thường liên lạc qua notepad trên điện thoại di động của họ. Ở đây, công nghệ đóng vai trò của một ý thức của con người, cho phép cá nhân Điếc giao tiếp thành công với các nền văn hóa khác nhau.

Phương tiện truyền thông xã hội có xu hướng rất quan trọng đối với cá nhân Điếc. Nhờ các trang web mạng, người Điếc tìm thấy nhau và giữ liên lạc chia sẻ thông tin với nhau.

Để đảm bảo cho người Điếc có đầy đủ thông tin, các phụ đề bằng chữ có sẵn trên truyền hình cần phải ghi đầy đủ âm thanh để cho người Điếc đánh giá đầy đủ các phần âm thanh của các chương trình phát sóng. Xem phim online, đang ngày càng phù hợp với việc cung cấp truy cập trực quan để phim có phụ đề và phần giới thiệu có chữ thông qua các thiết bị đứng một mình, mắt kính và công nghệ chú thích mở cho phép người Điếc có đầy đủ thông tin khi xem phim[11].

Tuy nhiên, người Điếc thường gặp các khó khăn không có đầy đủ các thông tin cần thiết: Các cơ sở như nhà hàng, các hãng hàng không, hoặc trung tâm thể dục không có phụ đề đối với những thông tin cần thiết; Hệ thống cảnh báo như báo cháy và đồng hồ báo thức thiếu các kích thích đến các giác quan khác nhau để cho một cá nhân Điếc có đầy đủ thông tin. Các đối tượng như rung gối và đèn nhấp nháy thường chiếm chỗ của các báo động dựa trên tiếng ồn.

Thiếu hiểu biết về khả năng tiếp cận công nghệ cho người điếc gây ra xung đột và bất công cho những người Điếc. Ví dụ, một số lượng đáng kể của các cá nhân điếc ở Anh thừa nhận rằng họ không hài lòng với các ngân hàng của họ, vì sự phụ thuộc rất nhiều vào ngân hàng qua điện thoại và thiếu sự hỗ trợ để người Điếc tiếp cận giao dịch[12]. Kiến trúc có lợi cho thông tin bằng kí hiệu đã giảm thiểu vật cản thị giác và có thể bao gồm những thứ như cửa trượt tự động để giải phóng tay cho cuộc trò chuyện liên tục[13].

Truyền thống văn học và nghệ thuật

Thơ và truyện kể được thể hiện bằng ngôn ngữ kí hiệu Mỹ và ngôn ngữ kí hiệu khác là một truyền thống cần được khuyến khích. Một số nghệ sĩ nổi tiếng và các tác phẩm của họ tại Hoa Kỳ như Clayton Valli, Benjamin Bahan, Ella Mae Lentz, Manny Hernandez, CJ Jones, Debbie Rennie, Patrick Graybill, Peter Cook, và nhiều người khác hiện nay đang ngày càng sẵn trên video[14].

Văn hóa người Điếc cũng đã thể hiện mình trong các ngôn ngữ chủ đạo bằng văn bản của các quốc gia của họ[15].

Nghệ sĩ khiếm thính như Betty G. Miller và Chuck Baird đã sản xuất tác phẩm nghệ thuật thị giác chuyển đi một thế giới quan điếc. Douglas Tilden là một nhà điêu khắc nổi tiếng người điếc đã sản xuất nhiều tác phẩm điêu khắc khác nhau trong cuộc đời của mình[16].

Các tổ chức như điếc Professional Arts Network hoặc D-PAN được dành riêng cho việc thúc đẩy phát triển nghề nghiệp và tiếp cận với các giải trí, các lĩnh vực nghệ thuật thị giác và phương tiện truyền thông cho các cá nhân bị điếc hoặc khiếm thính[17].

Lịch sử

Người điếc sử dụng NNKH luôn tự hào về lịch sử của họ. Tại Hoa Kỳ, họ kể lại những câu chuyện của Laurent Clerc, một nhà giáo dục người Điếc, đến Hoa Kỳ từ Pháp vào năm 1816 để giúp mở các trường đầu tiên cho trẻ em Điếc trong nước[18].

Một sự kiện khác cũng được nhắc đến như là sự kiện buồn của người Điếc là năm 1880 Hội nghị Quốc tế lần thứ hai về giáo dục người Điếc ở Milan, Italy, nơi mà có tới 90% trong 164 đại biểu là các nhà giáo dục là người không điếc đã bình chọn và chủ trương giáo dục người điếc bằng ngôn ngữ nói và loại bỏ ngôn ngữ kí hiệu trong các lớp học[19]. Nỗ lực này dẫn phản sự phản đối mạnh mẽ của người Điếc và nền văn hóa người Điếc đối với phương pháp dạy ngôn ngữ nói và đọc hình miệng và hạn chế hoặc không sử dụng NNKH trong lớp học. Phương pháp này được có ý định làm cho người điếc dễ dàng hòa nhập vào cộng đồng nghe. Nhưng những lợi ích của việc học ngôn ngữ nói trong một môi trường những người giao tiếp bàng lời nói đã và đang có nhiều ý kiến khác nhau. Việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu là trung tâm của bản sắc điếc, và cố gắng hạn chế việc sử dụng nó được xem như là một cuộc xâm hại, tấn công.

Để có thời cơ cứu vãn ngôn ngữ ký hiệu, những giáo viên và bản thân người điếc đã là những người đầu tiên đề nghị sử dụng ngôn ngữ riêng của họ theo phương thức giáo dục song ngữ gồm: ngôn ngữ ký hiệu, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Lịch sử đã ghi nhận rằng chính bản thân những người điếc đã chỉ ra được con đường đúng đắn duy nhất: Con đường cân đối trong việc sử dụng 2 ngôn ngữ đồng thời, một sự cân bằng thích hợp cho điều kiện và khả năng của họ.

Những kết luận tại Hội nghị Milan đã bị phản đối tại các hội nghị quốc tế dành cho người điếc ở: Cinciati (Mỹ): 1880; Paris (Pháp): 1889; Chicago (Mỹ): 1893; Geneva (Thụy Sỹ): 1896. Tại các hội nghị này người ta đã bác bỏ quyết định của Đại hội Milan và coi đó là giải pháp áp đặt, cưỡng bức đối với cộng đồng người điếc.

Tổ chức của người Điếc

Văn hóa người điếc bao gồm các tổ chức như các trường nội trú cho học sinh Điếc, các trường đại học cho học sinh Điếc (bao gồm Đại học Gallaudet, học viện Tây Nam Collegiate cho người Điếc, và Viện kỹ thuật quốc gia cho người điếc), các câu lạc bộ người Điếc, các liên đoàn thể thao Người Điếc, cơ sở xã hội (như The Home cho người cao tuổi và ốm yếu-Điếc-Câm tại thành phố New York), các tổ chức xã hội điếc (Ngôi nhà Thời gian Hạnh phúc dành cho người điếc Professional Happy Hour), nhóm điếc tôn giáo, nhà hát điếc và một loạt các hội nghị, lễ hội, chẳng hạn như các Hội nghị và Lễ hội II và Liên đoàn Thế giới của các hội nghị khiếm thính.

Các câu lạc bộ của người Điếc. Các câu lạc bộ người Điếc được hình thành và trong quá trình phát triển có những bước tăng trầm riêng. Ở Mĩ, trong những năm 1940 và 1950 các câu lạc bộ người Điếc phát triển mạnh mẽ. Có những nơi, câu lạc bộ người Điếc do người Điếc tự điều hành và không chỉ cho người Điếc sinh hoạt mà còn cho cả người không điếc và có thu nhập cách riêng của mình. Thu nhập để những nơi dành và của người Điếc đã được thực hiện bằng cách bán rượu và lưu trữ các trò chơi bài. Đôi khi, kinh doanh theo kiểu này đã rất thành công và tòa nhà của câu lạc bộ người Điếc sử dụng đã rất có giá. Tuy nhiên, điểm thu hút chính của các Câu lạc bộ là nơi người Điếc có thể tụ họp, chia sẻ những thông tin, trò chuyện, lưu trữ các ấn phẩm, diễn hài và chơi cac trò chơi. Nhiều trong số những câu chuyện ABC được phổ biến trước tiên được trình diễn ở các câu lạc bộ người Điếc. Các câu lạc bộ đã được phát triển hầu hết trong tất cả các thành phố lớn, thành phố New York là nơi có ít nhất là 12 câu lạc bộ. Các câu lạc bộ như trên là chỗ thư giãn, nghỉ ngơi quan trọng của người Điếc sau những giờ làm việc tại các nhà máy[20].

Trong những năm 1960, câu lạc bộ người Điếc bắt đầu suy giảm nhanh chóng. Hiện nay chỉ có một số ít lây lan ra các câu lạc bộ người Điếc tại châu Mỹ và số lượng người Điếc tham gia cũng không nhiều và phần lớn là người Điếc cao tuổi. Sự suy giảm đột ngột này có nguyên nhân là sự phát triển của công nghệ thông tin như TTY và phụ đề cho TV cá nhân. Với những lựa chọn khác có sẵn để giải trí và truyền thông, các câu lạc bộ người Điếc lớn chuyển thành qui mô nhỏ hơn. Nó không còn là lựa chọn duy nhất cho việc liên lạc với các thành viên khác trong cộng đồng người Điếc.

Tuy nhiên, nguyên nhân khác có thể là sự thay đổi của thị trường việc làm. Trong Đại chiến Thế giới II có nhu cầu cao đối với người lao động nhà máy và một lời hứa trả lương cao. Nhiều người Điếc ở Mĩ đã rời bỏ nhà cửa của họ để di chuyển đến các thành phố lớn với hy vọng có một công việc trong nhà máy. Điều này đã tạo ra dòng người lao động vào các thành phố và xuất hiện nhu cầu các câu lạc bộ cho người Điếc. Khi chiến tranh thế giới II kết thúc và phong trào dân quyền tiến triển, chính phủ liên bang bắt đầu cung cấp thêm nhiều việc làm cho người Điếc. Mọi người bắt đầu chuyển đổi từ sản xuất trực tiếp sang công việc dịch vụ, chuyển từ hoạt động theo ngày sang hoạt động được trả lương theo giờ. Ngày nay, câu lạc bộ người Điếc còn lại rất ít, nhưng những trung tâm vận động người điếc và khiếm thính, tổ chức khác đã trở nên phổ biến rộng rãi và mang tính phổ biến.

Tổ chức quốc gia người Mỹ gốc Phi điếc (The National Black Deaf Advocates – NBDA) là một tổ chức tuyên truyền của hàng ngàn người Điếc và người nghễnh ngãng gốc Phi ở Mĩ được thành lập từ năm 1982.  Nhiệm vụ của Tổ chức này là thúc đẩy sự phát triển lãnh đạo, các cơ hội kinh tế và giáo dục, bình đẳng xã hội và để bảo vệ sức khỏe nói chung và phúc lợi của người Điếc và người nghênh ngãng da đen.

Là một tổ chức phi lợi nhuận, được miễn thuế, tổ chức người tiêu dùng, NBDA được hỗ trợ bởi các thành viên và những người khác của nó quan tâm thúc đẩy hơn nữa sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu chiến lược của tổ chức này. Thành viên bao gồm Đen Điếc và thính; cha mẹ của Đen Điếc và thính trẻ em; chuyên gia làm việc với thanh thiếu niên, người Điếc và người không điếc da đen; phiên dịch viên ngôn ngữ kí hiệu; người da màu; và cá nhân quan tâm và tổ chức khác. NBDA cũng làm việc cùng với hơn 30 chi nhánh tại địa phương trên cả nước.

Ban chấp hành NBDA làm việc trên cơ sở tự nguyện và bao gồm một phần lớn của người điếc và nghễnh ngãng những người ủng hộ Tổ chức. Ban Giám đốc quốc gia và phụ trách các chi nhánh được lựa chọn bằng cách bầu trong hội nghị quốc gia, các hội nghị khu vực tương ứng của họ.[21]

Tổ chức Liên minh Cầu vồng (Rainbow Alliance of the Deaf -RAD) của người Điếc

Liên minh Cầu vồng của người Điếc – RAD là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào năm 1977 để “thiết lập và duy trì một xã hội của những người Điếc nhằm khuyến khích và thúc đẩy phúc lợi giáo dục, kinh tế và xã hội; cung cấp học bổng, bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi của người điếc liên quan đến công bằng xã hội; xây dựng một tổ chức trong đó tất cả các thành viên xứng đáng có thể tham gia vào các cuộc thảo luận về các vấn đề thực tiễn và giải pháp liên quan đến phúc lợi xã hội của họ. RAD hoạt động manh ở Hoa Kỳ và Canada”[22]. Ngoài ra còn có các trung tâm tài nguyên điếc Điếc American Center Queer Resource (DQRC), Hồng Kông Bauhinias Điếc Club và Hội LGBT Greenbow của Ireland.

Các tổ chức tôn giáo điếc

Có nhà thờ dành cho người Điếc, nơi ngôn ngữ kí hiệu là ngôn ngữ chính, các hội đường điếc, trung tâm cộng đồng Do Thái điếc và các chủng viện Hebrew của người Điếc ở Illinois. Trong năm 2011, phong trào bảo thủ nhất trí thông qua các responsa giáo đoàn, “Tình trạng của Heresh [một người điếc] và các NNKH,” do Ủy ban về Luật Do Thái và tiêu chuẩn (CJLS). Responsa này tuyên bố rằng, trong số những thứ khác, “Uỷ ban về Luật Do Thái và các tiêu chuẩn quy tắc mà người điếc người giao tiếp bằng NNKH và không nói là không còn được coi là tinh thần bất lực. Do vậy, Người Điếc Do Thái có trách nhiệm quan sát mitzvot. Cộng đồng người Điếc, các hội đường, trường học, và các hội trại phải phấn đấu để được chào đón và tiếp cận được, và hòa nhập. NNKH có thể được sử dụng trong các vấn đề về nhân thân và có thể được sử dụng trong các nghi lễ. Một người điếc gọi đến Torah người không nói được có thể đọc thuộc lòng “kinh thánh” qua NNKH. Một người điếc có thể phục vụ như là một tzibbur shaliah trong NNKH trong một minyan có phương tiện giao tiếp là ngôn ngữ kí hiệu.

Các tổ chức phụ nữ điếc

Có 15 chi nhánh của Liên hiệp phụ nữ Điếc trên khắp châu Mỹ. Nhiệm vụ của nó là: “Thúc đẩy cuộc sống của phụ nữ Điếc thông qua trao quyền, làm giàu, và mạng.”[23] Ngoài ra còn có màu hồng Wings of Hope, một nhóm hỗ trợ bệnh ung thư vú cho phụ nữ Mỹ Điếc và nghễnh ngãng.

Thư viện và cộng đồng người Điếc

Người Điếc có nhu cầu, giống như mọi người, đến thư viện và thường gặp nhiều khó khăn khi truy cập tài liệu và dịch vụ. Trong vài thập kỷ qua, các thư viện ở Hoa Kỳ đã bắt đầu thực hiện các dịch vụ và các bộ sưu tập dành cho người Điếc và ngày tạo ra nhiều thông tin để cả thế giới có thể truy cập nhiều hơn.

Hiệp hội Thư viện Hoa Kì thừa nhận rằng những người Điếc thuộc về một dân tộc thiểu số thường bị bỏ qua và thiếu đại diện bởi những người trong thư viện. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua, các thư viện trên khắp Hoa Kì đã có những bước tiến lớn trong công tác làm cho các thư viện có thể truy cập nhiều hơn đến mọi người nói chung và cộng đồng người Điếc nói riêng.

Một trong những hoạt động đầu tiên trong cộng đồng thư viện hướng tới tiếp cận cho người Điếc là bà Alice Hagemeyer. Khi cộng đồng người Điếc bị vô hiệu hóa bắt đầu đòi bình đẳng trong những năm 1970, Hagemeyer quyết định trở lại trường học để lấy bằng thạc sĩ về khoa học thư viện. Trong khi đang học thạc sĩ, bà nhận ra rằng không có nhiều thông tin về cộng đồng người Điếc tại thư viện của mình hoặc tại thư viện của các bạn cùng lớp. Cô nhanh chóng trở thành một nhà hoạt động tăng cường nhận thức cho người Điếc tại thư viện của mình, và cô đã trở thành “Thủ thư cho cộng đồng người Điếc” đầu tiên từ bất kỳ thư viện công cộng trong toàn quốc. Hagemeyer cũng xây dựng một nhãn hiệu cho người Điếc và những người liên quan đến họ gọi là The Notebook Red. Máy tính xách tay hiện nay là tài nguyên trực tuyến, trong đó có sẵn tại trang web của những người bạn của thư viện cho Hàng động của người Điếc. Thư viện Hagemeyer là một trong những thư viện đầu tiên có những bước tiến cho cộng đồng người Điếc[24].

Ông Karen Mc.Quigg, người làm cho thư viện ở Úc, tuyên bố rằng “thậm chí mười năm trước, khi tôi được tham gia vào một dự án tìm kiếm các thông tin cho người điếc, nó có vẻ như khoảng cách giữa các nhu cầu của nhóm này và những gì có trong các thư viện công cộng là quá lớn.[25]” Rõ ràng, ngay cả thời gian gần đây, trong thư viện quốc gia và quốc tế rất hiếm các thông tin về cộng đồng người Điếc.

Hướng dẫn mới từ các tổ chức thư viện như Liên đoàn quốc tế của Hiệp hội Thư viện và tổ chức (IFLA) và ALA đã có những điều khoản hướng dẫn các thư viện bổ sung, điều chỉnh thông tin để người khuyết tật nói chung, người Điếc nói riêng dễ dàng tiếp cận. Hướng dẫn IFLA dịch vụ thư viện cho người Điếc là một tập hợp các hướng được công bố để thông báo cho tất cả thư viện phải cung cấp cho khách hàng là người Điếc đảm bảo rằng khách hàng là người Điếc có quyền bình đẳng trong tất cả các dịch vụ thư viện có sẵn. Hướng dẫn khác bao gồm nhân viên thư viện đào tạo để cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng người Điếc như văn bản, TTY, truyền hình và phát triển một bộ sưu tập cho tất cả các thành viên trong cộng đồng người Điếc[26].

Trong những năm qua, dịch vụ thư viện đã bắt đầu phát triển để đáp ứng nhu cầu và mong muốn của cộng đồng người khiếm thính địa phương. Tại Thư viện Nữ hoàng Borough Công (QBPL) ở New York, các nhân viên thực hiện những ý tưởng mới và sáng tạo để liên quan đến các nhân viên cộng đồng và thư viện với những người khiếm thính trong cộng đồng của họ. Các QBPL thuê một thư viện, Lori Stambler, để đào tạo các nhân viên thư viện về văn hóa người Điếc, để dạy ngôn ngữ kí hiệu cho các thành viên gia đình và những người có liên quan với những người khiếm thính, và dạy các lớp xóa mù chữ cho người điếc. Khi làm việc với thư viện, Stambler đã có thể giúp cộng đồng tiếp cận với những người hàng xóm điếc của mình và giúp những người khiếm thính khác trở nên tích cực hơn trong cộng đồng bên ngoài của họ[27].

Thư viện dành cho người Điếc

Thư viện tại Đại học Gallaudet, là thư viện duy nhất tại Hoa Kỳ, được thành lập vào năm 1876. Bộ sưu tập của thư viện này hiện nay là bộ sưu tập lớn nhất thế giới có tới hơn 234.000 cuốn sách và hàng ngàn các tư liệu khác trong các định dạng khác nhau. Các bộ sưu tập của thư viện đã tạo ra một hệ thống phân loại hybrid dựa trên các số thập phân Hệ thống phân loại Dewey để làm biên mục và vị trí trong thư viện dễ dàng hơn nhiều cho cả nhân viên thư viện và người sử dụng. Các thư viện cũng là nơi lưu trữ một số cuốn sách điếc liên quan lâu đời nhất và các tài liệu trên thế giới của trường đại học,[28].

Trong tỉnh Nashville, bang Tennessee, Sandy Cohen quản lý các dịch vụ thư viện cho các khiếm thính (LSDHH). Dịch vụ này đã được hình thành vào năm 1979 để đáp ứng các vấn đề tiếp cận thông tin cho người khiếm thính ở vùng Nashville. Ban đầu, các dịch vụ chỉ cung cấp được các tin tức thông qua một máy đánh chữ hoặc TTY, nhưng đến nay, dịch vụ đã được mở rộng để phục vụ toàn bộ bang Tennessee bằng cách cung cấp tất cả các loại thông tin khác nhau và các tài liệu về bệnh điếc, văn hóa Điếc và thông tin cho các thành viên gia đình của những người điếc cũng như một bộ sưu tập lịch sử và tài liệu tham khảo.

Thuật ngữ: “Điếc” và “điếc”

Năm 1972, Giáo sư James Woodward, đồng giám đốc của Trung tâm Ngôn ngữ và nghiên cứu Điếc tại Đại học Trung Quốc của Hồng Kông từ năm 2004, đã đề xuất từ ngữ chỉ sự phân biệt giữa điếc và các nền văn hóa điếc[29]. Ông đề nghị sử dụng điếc (bằng văn bản với một trường hợp thấp hơn đ) để tham khảo các điều kiện vật chất của bệnh điếc và khiếm thính (bằng văn bản với một trường hợp Đ trên) để tham khảo văn hóa khiếm thính. Sự khác biệt này đã được áp dụng rộng rãi trong các nền văn hóa[30].

Một quy định của bang Colorado, Hoa Kì, Bộ Dịch vụ Nhân sinh định nghĩa “điếc” (chữ hoa) là “Một nhóm người, với thay đổi thính lực, mà phương thức giao tiếp chính là ngôn ngữ hình ảnh (ASL) và có một di sản văn hóa và chia sẻ”, và có một định nghĩa riêng biệt cho” điếc “(chữ thường).

“Khiếm thính”

Thuật ngữ “Khiếm thính” chỉ người có hạn chế về nghe và có khả năng được sử dụng ngôn ngữ nói hoặc những người lớn bị mắc phải điếc chứ không phải những người lớn điếc bẩm sinh. Ngược lại, những người đồng cảm với các phong trào văn hóa Điếc thường từ chối các từ ngữ chỉ rằng điếc là một tình trạng bệnh lý, mà thay vào đó là sự tự hào về văn hóa Điếc.

Đánh giá nội dung 1:

  1. Hãy phân tích những đặc điểm văn hóa người Điếc trên thế giới
  2. Hãy phân tích các yếu tố tác động đến khác biệt giữa các nhóm cộng đồng người điếc.
  3. Có luận điểm cho rằng: “Văn hóa người Điếc” là không phát triển và chỉ còn là “Phong cách người Điếc”, hãy bình luận về câu nói trên.

Nội dung 2. Văn hóa người Điếc Việt Nam

Hoạt động 2. Đọc, nghiên cứu các thông tin dưới đây và trả lời câu hỏi:

  1. Nêu quá trình hình thành văn hóa Điếc ở Việt Nam
  2. Nêu các đặc điểm văn hóa “Điếc”các vùng miền

 Thông tin nguồn cho nội dung 2:

Trường dành cho người điếc được thành lập ở Việt Nam đầu tiên là trường dành cho trẻ điếc ở Lái thiêu, Bình Dương (hiện nay). Các hoạt động của trường này ở giai đoạn mới thành lập tập trung vào: dạy trẻ điếc bằng cả ngôn ngữ kí hiệu và bằng cả ngôn ngữ nói. Tuy nhiên chưa có tài liệu nào chỉ rõ văn hóa Điếc trong giai đoạn này.

Từ những năm 1975, một số trường dành cho trẻ điếc được hình thành ở một số thành phố, tỉnh lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ, Phú Thọ, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Phú Yên,… Tuy nhiên, việc dạy trẻ điếc vẫn chưa chú trọng đến ngôn ngữ kí hiệu mà chủ yếu là dạy nói với những trường phái khác nhau.

Việc tập hợp và sử dụng ngôn ngữ kí hiệu thực sự được bắt đầu từ năm 1996, khi có đề tài nghiên cứu cấp bộ về lĩnh vực này. Những nghiên cứu về Văn hóa Điếc chỉ dừng lại ở mực độ tìm hiểu để mô tả những đặc điểm về phong cách người điếc, nhóm người điếc lớn tuổi chủ yếu là những học sinh đã học xong chương trình tiểu học trong các cơ sở giáo dục chuyên biệt. Từ  những năm 2000, ngôn ngữ kí hiệu được sử dụng và mở rộng ở nhiều tỉnh thành ở những vùng miền có đề án, dự án như: Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Đồng Nai, Long An, Đồng Tháp (dự án giáo dục hòa nhập trẻ khiếm thính – PSBI), Hà Nội (dự án tăng cường năng lực cho câu lạc bộ người điếc – SHIA – Thụy Điển). Những năm tiếp theo, cùng với quan điểm mở rộng quan hệ quốc tế, một số người điếc được học tập, đào tạo ở nước ngoài và các hội của người điếc ở nước ngoài đến Việt Nam, người điếc ở Việt Nam có nhiều cơ hội chia sẻ, học tập kinh nghiệm và năng lực người điếc được cải thiện một cách rõ rệt. Theo xu thế này, các nhóm người điếc tự phát và tiếp theo, các câu lạc bộ người điếc được hình thành và phát triển đã tạo điều kiện cho người điếc có cơ hội giao lưu, gặp gỡ và chia sẻ thông tin với nhau.

Sự phát triển của ngôn ngữ kí hiệu và văn hóa Điếc phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, song chủ yếu dựa vào bản thân người điếc cùng với năng lực và học vấn của họ. Cơ hội được phát triển của người điếc cùng từng bước được cải thiện bằng những hoạt động trong các câu lạc bộ dưới sự bảo lãnh của các cơ sở giáo dục chuyên biệt dành cho trẻ điếc, một số người điếc được tham dự các hoạt động của người điếc trong khu vực và Thế giới.

Sự phát triển ngôn ngữ kí hiệu và văn hóa người Điếc có sự phát triển đột phá với một số người điếc có trình độ cao đẳng sư phạm và Dự án ‘Giáo dục trẻ điếc trước tuổi đến trường” từ năm 2012. Với Dự án này, người Điếc có cơ hội được học hỏi, được bồi dưỡng chuyên môn để nâng cao năng lực tự lập, hướng dẫn cho trẻ điếc nhỏ tuổi,…

Văn hóa người Điếc Việt Nam có một số đặc điểm và tuân theo qui luật phát triển văn hóa điếc trên thế giới. Cụ thể:

1.Văn hóa người Điếc được hình thành chủ yếu do những người điếc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu trong các cơ sở giáo dục chuyên biệt, các câu lạc bộ của người điếc và nhóm người điếc tự phát.   

  1. Đa dạng trong văn hóa. Mỗi vùng miền, người điếc có những nét đặc trưng, chịu tác động của văn hóa địa phương nơi người điếc sinh sống và sử dụng ngôn ngữ ký hiệu mang tính tự nhiên, tự phát.
  2. Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu tự nhiên, tự phát trong nhỏ, cộng đồng người điếc địa phương. Sự đa dạng trong kí hiệu ngôn ngữ thậm chí ngay cả trong các nhóm nhỏ của người điếc. Các kí hiệu ngôn ngữ cũng chịu tác động của ngôn ngữ kí hiệu Pháp và ngôn ngữ kí hiệu Mỹ.
  3. Giá trị và niềm tin của người điếc ngày càng được thể hiện. Bản thân cộng đồng người điếc ngày càng được trưởng thành cả về tri thức, học vấn và các hoạt động xã hội. Mặt khác, các luật quốc tế và chính sách của Việt Nam tạo cơ hội cho người điếc được ngày càng đảm bảo cho người điếc thực hiện quyền và bổn phận của mình.
  4. Sử dụng công nghệ thông tin. Người điếc ngày càng có điều kiện sử dụng những thiết bị điện tử để giao lưu với nhau. Các thông tin được chia sẻ và cập nhật nhanh.
  5. Tổ chức của người Điếc ngày càng phát triển cả về số lượng, mở rộng ra các tỉnh thành trong toàn quốc, hình thức hoạt động ngày càng phong phú, chất lượng ngày càng được đảm bảo.

Đánh giá nội dung 2:

  1. Hãy phân tích những đặc điểm văn hóa người Điếc ở Việt Nam
  2. Hãy phân tích các yếu tố tác động đến khác biệt giữa các nhóm cộng đồng người điếc ở Việt Nam.

 

THỰC HÀNH

  1. Xem Clip “Văn hóa người Điếc” và trả lời câu hỏi sau đây:

Xem lần 1: Liệt kê những nội dung chính người Điếc nói

Xem lần 2: Ghi lại tất cả những “ký hiệu chính – ký hiệu khóa” của băng hình

Xem lần 3.

  • Ghi lại những đặc điểm của người Điếc thể hiện trong băng hình và so sánh cách thể hiện của người Điếc với người nghe khi truyền đạt cùng thông tin
  • Nêu đặc điểm giao tiếp của người Điếc
  1. Xem Clip “Giới thiệu” và trả lời câu hỏi sau đây:

Xem lần 1.

  1. Liệt kê những nội dung chính cuộc giao tiếp giữa hai người Điếc

Xem lần 2

  • Ghi lại những đặc điểm của người Điếc thể hiện trong băng hình và so sánh cách thể hiện của người Điếc với người nghe khi truyền đạt cùng thông tin
  • Nêu đặc điểm giao tiếp của người Điếc

Nội dung Clip 1. Giới thiệu

GIỚI THIỆU VĂN HÓA CỦA NGƯỜI ĐIẾC

Bây giờ tôi sẽ giới thiệu, giải thích về văn hóa của người Điếc. Trong giao tiếp có rất nhiều lĩnh vực: gia đình, bạn bè, trường học. Bây giờ tô sẽ ví dụ cho các bạn. Trong khi giao tiếp, khi 2 người gặp nhau nên có 1 khoảng cách nhất định không nên đứng sát nhau quá vì khi đứng sát nhau sẽ khó làm ký hiệu và điều này không hợp lý và nên có khoảng cách nhất định thì sẽ dễ nhìn nhau hơn.

Thứ hai, là khi 2 người ở cách xa nhau quá thì chúng ta có thể gọi nhau bằng cách đập bàn, đập tường hoặc vẫy tờ giấy hoặc lấy đèn pin để bấm về phía người đó vì khi người Điếc thấy có cái gì đằng sau lưng thì họ sẽ quay lại.  Khi nói chuyện ở khoảng cách xa nhau thì nên làm ký hiệu thật rộng thì mới có thể nhìn thấy được. Hoặc xa quá không nhìn thấy rõ thì gọi điện thoại bằng hình (video call). Bây giờ là thời đại công nghệ rồi nên có vấn đề gì cả.

Thứ 3, khi chúng ta có gì cần giao tiếp với nhau thì có thể sử dụng điện thoại, laptop có camera để nói chuyện với nhau.

Còn về trong gia đình thường bố mẹ người Điếc không biết NNKH thì chúng ta làm thế nào? Có thể sử dụng bút hoặc điệu bộ và khi sử dụng điệu bộ thì bố mẹ có thể hiểu được. Nhưng đó không phải là NNKH mà chỉ là các điệu bộ diễn tả sự vật, hiện tượng xung quanh thôi.

Khi con là người Điếc, bố mẹ muốn gọi cửa, nếu gõ cửa thì con không nghe được, nên cần lắp chuông đèn, khi thấy đèn sáng thì con sẽ ra mở cửa hoặc nháy điện thoại. Có rất nhiều cách khác nhau.

Ở trường học, giữa giáo viên Nghe với học sinh Điếc và giữa học sinh Điếc với nhau có cách nói chuyện khác nhau. Khi giáo viên Nghe và học sinh Điếc nói chuyện với nhau thì hai người phải nhìn nhau và học sinh thì không nên làm ký hiệu quá nhanh chỉ nên làm KH với tốc độ vừa phải vì giáo viên không thể hiểu hết các ký hiệu. Khi HS Điếc nói chuyện với nhau thì có thể thoải mái nói nhanh và sử dụng điệu bộ, biểu cảm trên khuôn mặt.

Trong lớp bàn ghế nên sắp xếp như thế nào? Ví dụ: Bảng ở sau lưng tôi và tôi là giáo viên thì chúng ta nên kê bàn ghế theo hình chữ U để HS có thể nhìn thấy hs dễ dàng. Nếu kê hàng ngang thì HS ngồi trước sẽ che HS phía sau và HS phía sau sẽ khó nhìn nên tốt nhất là kê theo hình chữ U. Về vấn đề đèn, đèn phải sáng để hs tập trung và nhìn GV rõ. Vấn đề trang phục của GV, GV không nên mặc áo quần có hoa chỉ nên mặc 1 màu. Nếu quần áo nhiều màu thì HS sẽ khó nhìn.

 Ở nhà người Điếc nên có chuông đèn vì khi có khách đến thì người Điếc biết và ra mở cửa. Tiếp nữa là người Điếc nói chuyện bằng gì và như thế nào. Khi 2 người Điếc nói chuyện với nhau thì phải nhìn nhau ko nên nhìn ngược nhìn xuôi vì như thế họ sẽ ko hiểu nội dung câu chuyện. Điều này khác với người Nghe. Người nghe khi nói chuyện thì có thể nhìn chỗ khác hoặc làm các việc khác… Người nghe và người Điếc khác nhau ở điểm đó, người Điếc nhìn bằng mắt còn người nghe thì nghe bằng tai. Điểm mạnh nhất của người Điếc chính là đôi mắt để dùng khi nói chuyện, đôi mắt để quan sát và nắm bắt mọi sự việc xung quanh. Người nghe sử dụng đôi tai. Dù tiếng động nhỏ nhất họ cũng nghe được. Đây là điểm khác nhau giữa người nghe và người Điếc. Vừa rồi tôi đã giới thiệu một vài đặc điểm trong văn hóa người Điếc. Mọi người ghi nhớ nhé. Xin cảm ơn!

Nội dung Clip 2. Chào hỏi – giới thiệu

NNKH Ngôn ngữ nói
– A: xin chào

– B: xin chào

– A: Bạn khỏe không?

– B: Tôi rất khỏe. Còn anh?

– A: Khỏe. Anh tên gì?

–  B: Tôi tên Linh. Tên ký hiệu “Linh”. Còn anh?

– A: Tôi tên Thái Anh. Tên ký hiệu “Thái Anh”

– B: A, Thái Anh.

– A: Anh tuổi bao nhiêu?

– B: Tôi tuổi 31. Còn anh?

– A: Tôi 29. Anh gia đình người mấy?

– B: Tôi gia đình 4. Bố, mẹ, anh trai và tôi là út. Còn anh?

– A: Tôi gia đình 5: ông, bà, bố, mẹ, tôi. Anh làm gì?

– B: Tôi làm nông nghiệp cho gia đình ăn. Còn anh?

– A: Tôi làm sửa gì? Ô tô, xe máy hỏng tôi sửa nó.

– B: Ồ tốt quá.

– A: Anh ở đâu?

– B: Tôi sống Hồ Chí Minh. Còn anh?

– A: Tôi Hà Nội. Gặp anh rất vui

– B: Gặp anh rất vui. Tạm biệt.

– A: Tạm biệt

– A: xin chào

– B: xin chào

– A: Bạn khỏe không?

– B: Tôi rất khỏe. Còn anh?

– A: Khỏe. Anh tên gì?

–  B: Tôi tên Linh. Tên ký hiệu “Linh”. Còn anh?

– A: Tôi tên Thái Anh. Tên ký hiệu “Thái Anh”

– B: A, Thái Anh.

– A: Anh bao nhiêu tuổi?

– B: Tôi 31 tuổi. Còn anh?

– A: Tôi 29. Gia đình anh có mấy người?

– B: Gia đình tôi có 4 người. Bố, mẹ, anh trai và tôi là út. Còn anh?

– A: Gia đình tôi có 5: ông, bà, bố, mẹ, tôi. Anh làm gì?

– B: Tôi làm nông nghiệp để nuôi sống gia đình. Còn anh?

– A: Tôi làm nghề sửa xe. Tôi sửa ô tô, xe máy hỏng.

– B: Ồ tốt quá.

– A: Anh ở đâu?

– B: Tôi sống ở Hồ Chí Minh. Còn anh?

– A: Tôi ở Hà Nội. Gặp anh, tôi rất vui

– B: Gặp anh, tôi cũng rất vui. Tạm biệt.

– A: Tạm biệt

 

Tài liệu tham khảo

  1. Ability Magazine: Sean Forbes – Not Hard to Hear”(2011)”. Retrieved 2012-04-04.
  2. Baker, Charlotte; Carol Padden (1978).American Sign Language: A look at its story, structure and community.
  3. Bauman, Dirksen (2006). Jennifer Nelson and Heidi Rose, ed.Signing the Body Poetic: Essays in American Sign Language Literature. University of California Press. ISBN 0-520-22975-4.
  4. Bauman, Dirksen (2008).Open your eyes: Deaf studies talking. University of Minnesota Press.ISBN 0-8166-4619-8.
  5. Baynton, Douglas (1996).Forbidden Signs: American Culture and the Campaign against Sign Language. University of Chicago Press. ISBN 0-226-03964-1.
  6. Colorado Department of Human Services Regulation 12 CCR 2516-1
  7. Day, J. M. (2000). Guidelines for library services to deaf people (Report no. 62). The Hague: International Federation of Library Associations and Institutions.
  8. Douglas Tilden facts and information”.
  9. Gannon, Jack. 1981.Deaf Heritage–A Narrative History of Deaf America, Silver Spring, MD: National Association of the Deaf, p. 378 (photo and caption)
  10. Hagemeyer, A. L. (2001). Achievement: From a lack of knowledge to an appreciation of Deaf history. IFLA Conference Proceedings, 1–3.
  11. Harrigton, Thomas.“Sign language of the world by name”. Galllaudet University Library. Retrieved24 July2012.
  12. Harrington, T.R. (1998). The Deaf collection at the Gallaudet University Library. Education Libraries, 22(3), 5-12.
  13. Harrington, Thomas. “Sign language of the world by name.” n. page. Print.
  14. Hollander, P. (1995). Deaf-advocacy at Queens Borough PL. American Libraries, 26(6), 560–562.
  15. James Woodward biography”. Deaf Dialogue. 24 August 2010. Retrieved22 November2013.
  16. Jamie Berke (9 February 2010). “Deaf Culture – Big D Small D”. About.com. Retrieved 22 November2013.
  17. Krentz, Christopher (2000).A Mighty Change: An Anthology of Deaf American Writing 1816–1864. Gallaudet University Press.ISBN 1-56368-101-3.
  18. McQuigg, K. (2003). Are the deaf a disabled group, or a linguistic minority? Issues for librarians in Victoria’s public libraries. Australian Library Journal, 52(4). Retrieved fromhttp://alia.org.au/publishing/alj/52.4/full.text/mcquigg.html
  19. Mindess, Anna (2006).Reading Between the Signs: Intercultural Communication for Sign Language Interpreters.ISBN 978-1-931930-26-0.
  20. Mitchell, Ross E. & Karchmer, Michael A. (2004) Chasing the mythical ten percent: Parental hearing status of deaf and hard of hearing students in the United States.Sign Language Studies4:2, 138–163.
  21. Padden, Carol A.; Humphries, Tom (Tom L.) (2005).Inside Deaf Culture. Cambridge, MA: Harvard University Press. p. 1. ISBN 0-674-01506-1.
  22. Padden, Carol; Humphries, Tom (1988).Deaf in America: Voices from a Culture.Harvard University Press. p. 134. ISBN 0-674-19423-3.
  23. Tsymbal, Karina (2010).“Drum: Deaf Space And The Visual World – Buildings That Speak: An Elementary School For The Deaf”. Hdl.handle.net. Retrieved2012-04-15.
  24. Yvonne Pitroit, From the Old World, The silent Worker, volum 27, October, 1914 (Người làm việc thầm lặng, số 27, tháng 10 năm 1914)

Trang Web

  1. http://Bible.is/Deaf
  2. http://books.google.com/books?id=LwxzAwAAQBAJ&pg=RA2-PR64&lpg=RA2-PR64&dq=%22deaf+synagogues%22&source=bl&ots=XW6ZkykEAC&sig=gt8chZW2RFbHI4MD1Fd6jpTCv68&hl=en&sa=X&ei=OCiSU-rQJYnLsQTm2oKIBw&ved=0CEMQ6AEwBQ#v=onepage&q=%22deaf%20synagogues%22&f=false
  3. http://deafnetwork.com/wordpress/blog/2011/06/20/jdrc-salutes-conservative-judaisms-ruling-to-include-deaf-jews-as-equals/
  4. http://ohsoez.com/churches/churchtitle.htm
  5. http://pink.deafinc.org/about.html
  6. http://skokie.patch.com/listings/hebrew-seminary-of-the-deaf
  7. http://www.actiononhearingloss.org.uk/news-and-events/all-regions/press-releases/banks-face-massive-payouts-to-deaf-customers.aspx
  8. http://www.deafrad.org/
  9. http://www.dwu.org/#!about_us/csgz
  10. http://www.glbtq.com/social-sciences/deaf_culture,2.html
  11. http://www.hebrewseminary.org/contact_us.aspx
  12. http://www.jwi.org/page.aspx?pid=3312#sthash.YCGDTeU8.dpuf
  13. http://www.lgbtdiversity.com/organisations.aspx?title=other_lgbt_organisations
  14. http://www.nbda.org/content/about-us
  15. http://www.npr.org/blogs/alltechconsidered/2013/05/12/183218751/new-closed-captioning-glasses-help-deaf-go-out-to-the-movies

[1] Bienvenu (1990: 12)

[2] Mindess, Anna (2006). Reading Between the Signs: Intercultural Communication for Sign Language Interpreters. ISBN 978-1-931930-26-0.

[3] Baker, Charlotte; Carol Padden (1978). American Sign Language: A look at its story, structure and community.

[4] Jamie Berke (9 February 2010). “Deaf Culture – Big D Small D”. About.com. Retrieved 22 November2013.

[5] Mitchell, Ross E. & Karchmer, Michael A. (2004) Chasing the mythical ten percent: Parental hearing status of deaf and hard of hearing students in the United States. Sign Language Studies 4:2, 138–163

[6] Bauman, Dirksen (2008). Open your eyes: Deaf studies talking. University of Minnesota Press.ISBN 0-8166-4619-8

[7] Mindess, Anna (2006). Reading Between the Signs: Intercultural Communication for Sign Language Interpreters. ISBN 978-1-931930-26-0.

[8] Harrigton, Thomas. “Sign language of the world by name”. Galllaudet University Library. Retrieved 24 July2012.; Harrington, Thomas. “Sign language of the world by name.” n. page. Print.

[9] Gannon, Jack. 1981. Deaf Heritage–A Narrative History of Deaf America, Silver Spring, MD: National Association of the Deaf, p. 378 (photo and caption)

[10] Mindess, Anna (2006). Reading Between the Signs: Intercultural Communication for Sign Language Interpreters. ISBN 978-1-931930-26-0

[11] http://www.npr.org/blogs/alltechconsidered/2013/05/12/183218751/new-closed-captioning-glasses-help-deaf-go-out-to-the-movies

[12] http://www.actiononhearingloss.org.uk/news-and-events/all-regions/press-releases/banks-face-massive-payouts-to-deaf-customers.aspx

[13] Tsymbal, Karina (2010). “Drum: Deaf Space And The Visual World – Buildings That Speak: An Elementary School For The Deaf”. Hdl.handle.net. Retrieved 2012-04-15.

[14] Bauman, Dirksen (2006). Jennifer Nelson and Heidi Rose, ed. Signing the Body Poetic: Essays in American Sign Language Literature. University of California Press. ISBN 0-520-22975-4

[15] Krentz, Christopher (2000). A Mighty Change: An Anthology of Deaf American Writing 1816–1864. Gallaudet University Press. ISBN 1-56368-101-3

[16] “Douglas Tilden facts and information”.

[17] “Ability Magazine: Sean Forbes – Not Hard to Hear” (2011)”. Retrieved 2012-04-04.

[18] Krentz, Christopher (2000). A Mighty Change: An Anthology of Deaf American Writing 1816–1864. Gallaudet University Press. ISBN 1-56368-101-3

[19] Baynton, Douglas (1996). Forbidden Signs: American Culture and the Campaign against Sign Language. University of Chicago Press. ISBN 0-226-03964-1

[20] Baynton, Douglas (1996). Forbidden Signs: American Culture and the Campaign against Sign Language. University of Chicago Press. ISBN 0-226-03964-1.

[21] http://www.nbda.org/content/about-us; http://www.lgbtdiversity.com/organisations.aspx?title=other_lgbt_organisations; http://www.glbtq.com/social-sciences/deaf_culture,2.html; http://www.lgbtdiversity.com/organisations.aspx?title=other_lgbt_organisations; http://www.hebrewseminary.org/contact_us.aspx; http://books.google.com/books?id=LwxzAwAAQBAJ&pg=RA2-PR64&lpg=RA2;PR64&dq=%22deaf+synagogues%22&source=bl&ots=XW6ZkykEAC&sig=gt8chZW2RFbHI4MD1Fd6jpTCv68&hl=en&sa=X&ei=OCiSU-rQJYnLsQTm2oKIBw&ved=0CEMQ6AEwBQ#v=onepage&q=%22deaf%20synagogues%22&f=false

[22] http://www.deafrad.org/

[23] http://www.dwu.org/#!about_us/csgz

[24] Hagemeyer, A. L. (2001). Achievement: From a lack of knowledge to an appreciation of Deaf history. IFLA Conference Proceedings, 1–3.

[25] McQuigg, K. (2003). Are the deaf a disabled group, or a linguistic minority? Issues for librarians in Victoria’s public libraries. Australian Library Journal, 52(4). Retrieved

[26] Day, J. M. (2000). Guidelines for library services to deaf people (Report no. 62). The Hague: International Federation of Library Associations and Institutions.

[27] Hollander, P. (1995). Deaf-advocacy at Queens Borough PL. American Libraries, 26(6), 560–562.

[28] Harrington, T.R. (1998). The Deaf collection at the Gallaudet University Library. Education Libraries, 22(3), 5-12.

[29] “James Woodward biography”. Deaf Dialogue. 24 August 2010. Retrieved 22 November 2013.

[30] Jamie Berke (9 February 2010). “Deaf Culture – Big D Small D”. About.com. Retrieved 22 November2013.

Kiến thức chung về giáo dục trẻ điếc